Ước tính 6 tháng đầu năm, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) ước tăng 7,2% so với cùng kỳ, thấp hơn 0,6 điểm % so với năm 2015; trong đó, lĩnh vực NLTS và công nghiệp giảm, dịch vụ giữ mức tăng trưởng tương đương.
Giá trị tăng thêm ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tăng 0,3%;đóng góp 0,1 điểm % vào tăng trưởng GRDP (cùng kỳ 2015 tăng 1,9%). Nguyên nhân chủ yếu là do sản xuất nông nghiệp đạt thấp.
- Cơ cấu cây trồng vụ đông thay đổi: diện tích, sản lượng hành giảm (do năm trước giá bán thấp, hiệu quả thấp); tăng diện tích một số loại rau màu, củ đâu... nên giá trị giảm 80 tỷ đồng (-3,5%); vì vậy GTSX vụ đông giảm 2,2% so với cùng kỳ.
- Sản lượng lúa chiêm xuân giảm do diện tích giảm 1.036 ha (-1,7%); nguyên nhân do dồn ô đổi thửa, chỉnh trang đồng ruộng, làm đường giao thông nông thôn, chuyển mục đích sử dụng.
- Sản lượng vải giảm 25% (-12.100 tấn) so với năm trước; tương ứng giảm 100 tỷ đồng; làm giảm giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản 1 điểm%.
Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp, xây dựng tăng 9,3% (đóng góp 5,0 điểm % vào tăng trưởng). Tình hình sản xuất kinh doanh tương đối khả quan, chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng tăng 8,2% so với cùng kỳ (quý I tăng 9,6%). Ngành xây dựng tăng trưởng khá nhưng tăng thấp hơn cùng kỳ năm trước do hoạt động xây dựng nhà ở của dân cư thấp hơn; và phong trào xây dựng nông thôn mới năm 2015 tích cực hơn; công trình đường cao tốc 5B đang trong quá trình hoàn thiện.
Giá trị tăng thêm ngành dịch vụ tăng 7,2% (đóng góp 2,1 điểm % vào tăng trưởng): Chi ngân sách thường xuyên tăng khá (+10,4%); doanh thu các ngành dịch vụ hỗ trợ cho sản xuất công nghiệp như vận tải, kho bãi (+7,9%), thương mại bán lẻ (+9,5%), vẫn tăng ổn định.
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản (theo giá so sánh 2010) 6 tháng đầu năm ước đạt 10.034,7 tỷ đồng tăng 0,8% (+79,2 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp ước đạt 9.020 tỷ đồng, tăng 0,6% (+55 tỷ đồng), giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp ước đạt 22,2 tỷ đồng, tăng 35,0% (+5,8 tỷ đồng), giá trị sản xuất ngành thủy sản ước đạt 992,5 tỷ đồng, tăng 1,9% (+18,4 tỷ đồng) so với cùng kỳ trước.
1.1. Sản xuất nông nghiệp
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ đông xuân năm 2016 đạt 91.503 ha, giảm 0,9% (-812 ha) so với cùng kỳ năm trước (vụ đông giảm 112 ha, vụ chiêm xuân giảm 700 ha). Trong đó, diện tích vụ đông 21.855 ha, chiếm 23,9%; vụ chiêm xuân 69.648 ha, chiếm 76,1% tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ đông xuân.
Trong cơ cấu diện tích gieo trồng vụ đông xuân năm 2016, cây lúa chiếm tỷ trọng cao nhất đạt 66,4% (năm 2014 là 67,6%; năm 2015 là 66,9%), tiếp đó là nhóm cây rau, đậu, hoa, cây cảnh (26,1%), các nhóm cây còn lại chiếm tỷ trọng nhỏ không đáng kể. Năng suất lúa chiêm xuân năm 2016 sơ bộ tăng so với cùng kỳ. Hầu hết năng suất các loại cây hàng năm khác vụ đông xuân năm 2016 đều cao hơn so với vụ đông xuân trước, chủ yếu là tăng ở vụ đông.
Tổng diện tích gieo trồng vụ Chiêm xuân năm 2016 toàn tỉnh đạt 69.648 ha, giảm 1,0% (-700 ha) so với vụ Chiêm xuân 2015. Trong đó: cây lương thực có hạt đạt 61.837 ha, chiếm 88,8% tổng diện tích gieo trồng vụ chiêm xuân, giảm 1,7% (-1.067 ha) so với vụ chiêm xuân 2015; cây có củ chất bột đạt 224 ha, chiếm 0,3%, tăng 15,0 % (+29 ha) so với vụ chiêm xuân 2015; cây có hạt chứa dầu đạt 1.092 ha, chiếm 1,6%, tăng 1,0 % (+ 11 ha) so với vụ chiêm xuân 2015; rau, đậu hoa cây cảnh đạt 5.956 ha, chiếm 8,6% tổng diện tích gieo trồng, tăng 6,2% (+345 ha) so với vụ chiêm xuân 2015; các cây còn lại chiếm tỷ lệ nhỏ không đáng kể.
Sản lượng các loại cây trồng vụ đông xuân giảm ở một số cây trồng chủ lực (chiếm tỷ trọng lớn) đều do diện tích gieo trồng giảm như cây hành (vụ đông), lúa chiêm xuân. Vì vậy, giá trị sản xuất lĩnh vực trồng trọt giảm 1,8% so với cùng kỳ.
Tổng diện tích trồng cây lâu năm 6 tháng ước đạt 21.655 ha, giảm 0,1% (-14 ha) so với cùng kỳ. Cây ăn quả là cây trồng chiếm tỷ trọng lớn nhất diện tích ước đạt 21.009 ha, tăng 0,1% (+18 ha) so với cùng kỳ. Nguyên nhân do một số diện tích đất bãi ven đê trước để hoang nay được người dân cải tạo để trồng chuối, đu đủ…; việc dồn ô đổi thửa, chỉnh trang đồng ruộng trong phong trào xây dựng nông thôn mới và phong trào cải tạo vườn tạp nên nhiều địa phương đã chuyển đổi diện tích đất lúa, màu sang trồng cây ăn quả chuyên canh như: ổi, na, chuối, bưởi, nhãn, thanh long, mít... tạo thu nhập cao cho người nông dân.
Cây vải chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nhóm cây ăn quả, tập trung chủ yếu ở huyện Thanh Hà và Thị xã Chí Linh. Thời tiết không thuận lợi nên thời kỳ phân hóa mầm hoa, tỷ lệ ra hoa thấp; trong thời kỳ hoa nở, tỷ lệ đậu quả thấp. Mặt khác, tỷ lệ sâu bệnh hại vải năm nay cao hơn so với mọi năm do thời tiết nóng ẩm có mưa rào xen khẽ. Sản lượng vải ước đạt 36.300 tấn, so với năm trước giảm 25% do năng suất vải đạt thấp.
Về chăn nuôi, trong 6 tháng đầu năm 2016 cơ bản ổn định, không có dịch bệnh xảy ra. Các ngành chức năng của tỉnh đã tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh trong chăn nuôi; tuyên truyền, hướng dẫn người chăn nuôi phương pháp chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh trên đàn vật nuôi; thường xuyên tiêu độc, khử trùng chuồng trại, kết hợp tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin. Chăn nuôi trang trại và gia trại phát triển nhanh, chăn nuôi nhỏ lẻ trong hộ dân cư có xu hướng giảm dần. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi 6 tháng (theo giá so sánh năm 2010) ước đạt 2.348 tỷ đồng, tăng 8% (+173 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn, bò có xu hướng tăng nhẹ, chủ yếu tăng ở đàn trâu, bò nuôi thương phẩm, đàn trâu, bò cầy kéo xu hướng giảm dần. Tại thời điểm 30/6/2016, tổng đàn trâu của toàn tỉnh ước đạt 4.900 con, tăng 0,4%; đàn bò ước đạt 21.290 con, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn lợn tại thời điểm tháng 6 ước đạt 592.630 con, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn gia cầm các loại (gà, vịt, ngan, ngỗng, gia cầm khác) của toàn tỉnh ước đạt 9.507 nghìn con, tăng 3,1 % so với cùng kỳ năm trước, tăng cao nhất là đàn gà ước tăng 3,4%.
1.2. Lâm nghiệp
Giá trị sản xuất lâm nghiệp 6 tháng đầu năm 2016 (theo giá so sánh năm 2010), ước đạt 22,2 tỷ đồng, tăng 35,0% (+5,8 tỷ đồng) so với cùng kỳ.
Nhằm nâng cao chất lượng rừng phòng hộ, đảm bảo chức năng phòng hộ và bảo vệ cảnh quan môi trường của hệ thống rừng trên địa bàn tỉnh. Trong 6 tháng, toàn tỉnh có 180 ha diện tích rừng phòng hộ được trồng mới, tăng 150 ha so với cùng kỳ năm 2015.
Toàn tỉnh có 50 ha diện tích rừng trồng được chăm sóc, 100 ha diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh, toàn bộ diện tích rừng này đều nằm trong Dự án 661…
Đầu năm 2016, UBND tỉnh đã xây dựng vườn ươm tại xã Cộng Hòa, thị xã Chí Linh để phục vụ trồng rừng và trồng cây phân tán. Tổng số cây ươm giống lâm nghiệp ước đạt 89 ngàn cây; tăng 8,5% so với cùng kỳ. Trong năm 2016, tỉnh Hải Dương phấn đấu trồng mới trên 1 triệu cây các loại. Ước 6 tháng đầu năm cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 245 nghìn cây; tăng 9,4% so với cùng kỳ. Cây phân tán được trồng chủ yếu trong khu công nghiệp, cơ quan, trường học, ven đường, kênh mương.
1.3. Thủy sản
Giá trị sản xuất ngành thủy sản ước tính 6 tháng (theo giá so sánh 2010) đạt 992,5 tỷ đồng, tăng 1,9% (+18,4 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: thủy sản nuôi trồng ước đạt 965,4 tỷ đồng, tăng 2,1% (+ 19,9 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm trước và chiếm tỷ trọng 97,3 % tổng giá trị sản xuất ngành thủy sản 6 tháng; thủy sản khai thác ước đạt 27,1 tỷ đồng, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm 2015
Tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản 6 tháng đầu năm đạt 10.850 ha, tăng 3,8% (+396 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng là do trong năm chuyển đổi các vùng cấy lúa cho năng suất thấp sang nuôi trồng thủy sản; đồng thời, người nuôi thâm canh nhiều vụ hơn trong năm.
Phương thức nuôi lồng bè tiếp tục được duy trì và mở rộng sản xuất; toàn tỉnh ước đạt trên 2.150 lồng nuôi cá; tổng thể tích nuôi ước đạt 233.000 m3 tăng 22,1% (+390 lồng; 42.000 m3) so với cùng kỳ. Số lồng tăng chủ yếu ở Thanh Hà (+151 lồng), TP. Hải Dương (+140 lồng) và một số huyện mới phát sinh nuôi lồng bè điển hình như Tứ Kỳ.
Trong tổng diện tích nuôi trồng thủy sản, cá là loài thủy sản được nuôi phổ biến ở tỉnh Hải Dương. Diện tích nuôi cá ước đạt 10.677 ha, chiếm 98,4% trong tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Sở dĩ diện tích nuôi cá chiếm gần tuyệt đối là do giá cả sản phẩm đầu ra ổn định ở mức cao, dễ tiêu thụ, hiệu quả kinh tế đạt khá, đem lại nguồn lợi đáng kể cho người sản xuất.
2. Công nghiệp
2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp
Sang quý II mặc dù sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương vẫn giữ được mức tăng trưởng khá nhưng đang có xu hướng giảm dần. Bên cạnh đó trong bối cảnh hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp trong nước phải chịu áp lực rất lớn đến từ phía các doanh nghiệp nước ngoài. Số lượng doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động hay sản xuất cầm chừng tăng lên, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất công nghiệp của tỉnh.
So với tháng trước, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 6 tăng 1,1%: Cụ thể, ngành khai khoáng tăng 1,0%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,6%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hoà tăng 3,4%; ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải giảm 11,8%.
Trong nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ có một số ngành tăng, như: SX SP điện tử, máy vi tính và SP quang học +19,5%; ngành SX máy móc thiết bị chưa phân vào đâu +21,9%; ngành SX SP từ cao su và plastic +5,9%. Còn các ngành sản xuất còn lại đa số giảm, đặc biệt trong đó nhiều ngành giữ vai trò quan trọng đều có lượng sản xuất giảm; điển hình như: sản xuất chế biến thực phẩm -4,1%; sản xuất trang phục -3,9%; sản xuất than cốc -9,7%; sản xuất xi măng -15,6 %; sản xuất kim loại -14,5%;...
So với cùng kỳ năm trước, chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm tăng 8,2%. Trong đó nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,7%; sản xuất và phân phối điện, khí dốt, nước nóng, hơi nước, và điều hòa không khí tăng 4,3%; riêng cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 2,1%; công nghiệp khai khoáng giảm 17,7%.
3. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2016, ước đạt 4.978 tỷ đồng, bằng 50,0% dự toán năm và bằng 97,1% so với cùng kỳ năm 2015, trong đó thu nội địa 4.155 tỷ đồng, bằng 51,6% dự toán năm và tăng 2,6% so với cùng kỳ năm 2015, thu qua hải quan 823.305 tỷ đồng, bằng 43,3% dự toán năm và bằng 76,7% so với cùng kỳ năm 2015.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15 tháng 6, ước đạt 6.631 tỷ đồng, bằng 69,6% dự toán năm; trong đó, chi đầu tư phát triển 1.057 tỷ đồng, tăng 30,5%, chi thường xuyên 5.041 tỷ đồng, bằng 85,1%.
4. Thương mại, giá cả, dịch vụ
4.1. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 6 tháng ước đạt 20.126 tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước; trong đó khu vực Nhà nước giảm 5,1%; tập thể tăng 7,3%; cá thể tăng 12,2%; tư nhân tăng 4,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 24,7%. Nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 6 tháng ước tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước.
Phân theo ngành kinh tế, so với cùng kỳ năm trước doanh thu bán lẻ hàng hóa 6 tháng ước đạt 16.467,4 tỷ đồng, tăng 10,5%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 1.544,0 tỷ đồng, tăng 4,4%; doanh thu dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch ước đạt 5,5 tỷ đồng, tăng 3,6%; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 2.109,5 tỷ đồng, tăng 5,9%.
4.2. Xuất, nhập khẩu hàng hoá
Trị giá hàng hóa xuất khẩu 6 tháng ước đạt 1.973,3 triệu USD, tăng 1,3% so với cùng kỳ. Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng khá cao, tăng so với cùng kỳ là: hàng dệt may tăng 10,5%; giày dép các loại tăng 17,2%; máy vi tính, SP điện tử và linh kiện tăng 9,1%. Bên cạnh đó thì đá quý, kim loại quý giảm 18,8%; hàng hóa khác giảm 27,5%.
Trị giá hàng hóa nhập khẩu 6 tháng đầu năm ước đạt 1.688,9 triệu USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch nhập khẩu chiếm tỷ trọng khá cao, tăng so với cùng kỳ, gồm: nguyên phụ liệu may, da giày tăng 35,0%; điện tử và linh kiện điện tử tăng 33,5%; linh kiện và phụ tùng ô tô các loại tăng 14,7%. Còn lại hàng hóa khác giảm 19,6% so với cùng kỳ.
4.3. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tháng này tăng 0,34% so với tháng trước; so với tháng 12 năm trước tăng 2,53%; và so với bình quân cùng kỳ tăng 1,75%.
Nguyên nhân làm cho chỉ số tháng này tăng nhẹ chủ yếu là do nhóm hàng thực phẩm, ăn uống ngoài gia đình tăng nhẹ. Bên cạnh đó, do giá xăng dầu được điều chỉnh tăng hai lần (ngày 20/5 và 04/6), cả hai lần tăng tổng cộng 920đ/lít xăng các loại, dầu diezen tăng 680 đồng/ít và dầu hỏa tăng 840 đồng/kg. Tuy nhiên, từ 01/6 giá ga đun giảm 20.000đ/bình 12 kg nhưng tính bình quân so với tháng trước vẫn tăng 1.000đ/bình.
4.4. Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận chuyển hành khách 6 tháng đầu năm ước đạt 10,7 triệu hành khách, tăng 8,5% so với cùng kỳ; luân chuyển đạt 632,5 triệu hành khách.Km, tăng 9,0% so với cùng kỳ năm trước.
Vận chuyển hàng hóa 6 tháng năm nay ước đạt 30,5 triệu tấn, tăng 9,9% so với năm trước; luân chuyển đạt 1.767,9 triệu tấn.Km, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước./.
Nguồn: Tài khoản Hệ thống
Hôm nay: 1292
Tổng lượng truy cập: 24084583